Giáo dục ở Nhật bản được thế giới công nhận là giáo dục bậc cao trong nhiều thập kỷ qua, nền giáo dục ở Nhật bản đã thúc đẩy nền kinh tế Nhật bản giữ vững vị trí là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới.
Giáo dục ở Nhật bản được quốc tế công nhận là nền giáo dục bậc cao, hàng năm Nhật bản tiếp nhận hàng triệu du học sinh đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Để có được số lượng du học sinh quốc tế như ngày nay, Nền giáo dục ở Nhật bản luôn luôn được cải cách theo tiến bộ xã hội.
Nhật bản là quốc gia khan hiến về nguồn tài nguyên, và là nơi có nhiều đảo nhất khu vực Đông Nam Á, khi nền khoa học chưa phát triển, Nhật bản chỉ dựa vào ngành nông nghiệp là chủ yếu. Những năm 90 đến nay, Nhật bản đã phát triển vượt bậc nhờ sự tập trung vào ngành công nghệ và luôn đứng vững trên thế giới về nền kinh tế nhiều năm qua. Bên cạnh đó ngành giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo ra những con người tìm năng của quốc gia.
Nhật bản là quốc gia khan hiến về nguồn tài nguyên, và là nơi có nhiều đảo nhất khu vực Đông Nam Á, khi nền khoa học chưa phát triển, Nhật bản chỉ dựa vào ngành nông nghiệp là chủ yếu. Những năm 90 đến nay, Nhật bản đã phát triển vượt bậc nhờ sự tập trung vào ngành công nghệ và luôn đứng vững trên thế giới về nền kinh tế nhiều năm qua. Bên cạnh đó ngành giáo dục đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo ra những con người tìm năng của quốc gia.
Những thành công của nền giáo dục Nhật bản
Thành công từ việc hợp tác quốc tế
Giáo dục ở Nhật bản: Giữa
những năm 1947 và 1950, hệ thống giáo dục Nhật Bản được thay đổi thành
hệ thống 6-3-3-4 trên toàn quốc (6 năm cho tiểu học, 3 năm cho trung học
cơ sở, 3 năm cho trung học phổ thông và 4 năm cho cao đẳng, đại học),
là chuẩn mực giáo dục ở Nhật Bản.
Thập niên 90, một báo cáo nhan đề “Một
quốc gia lâm nguy” được công bố ở Mỹ nêu bật nhu cầu cải cách giáo dục
tại Nhật Bản. Lãnh đạo hai nước Mỹ và Nhật tán thành rằng cần phải có
một cuộc nghiên cứu, so sánh nền giáo dục giữa hai nước. Sau đo, một
cuộc họp thương lượng đầu tiên được tổ chức ở Kyoto có 24 nước tham dự,
kết quả: Có 2 bản báo cáo được công bố. Trong một bản, các nhà nghiên
cứu Mỹ báo cáo về những điểm mạnh và điểm yếu của Nhật Bản, còn các bản
báo cáo kia, các nhà nghiên cứu Nhật Bản cũng tiến hành tương tự như vậy
đối với nền giáo dục của Mỹ.
Từ những tiêu chuẩn ngặt nghèo...
Từ những tiêu chuẩn ngặt nghèo...
Ở
Nhật, hầu hết các trường tiểu học đều là trường công, chỉ có khoảng 0,7
trường tiểu học là trường tư. Các trường trung học cơ sở cũng vậy, có
đến 97% là trường công và chỉ có 3% là trường tư. Có khoảng 27% trường
trung học phổ thông là trường tư. Học sinh ở khu vực nào phải theo học ở
trường khu vực đấy, muốn học khác tuyến cũng không được. Nhật Bản đang
cố gắng tiêu chuẩn hoá trình độ giáo viên trên toàn quốc để đảm bảo chất
lượng giảng dạy. ở Nhật Bản có 50 huyện, mỗi huyện chịu trách nhiệm
tuyển giáo viên cho huyện mình. Một giáo viên năm nay có thể phụ trách
dạy lớp 1, nhưng năm sau có thể dạy lớp 3 hay lớp 5. Cũng thường xuyên
quay vòng việc dạy cũng như chuyển dạy từ trường này sang trường khác.
Với những nghiên cứu sâu rộng...
Với những nghiên cứu sâu rộng...
Tổ
chức đánh giá giáo dục quốc tế đã tiến hành hai cuộc khảo sát so sánh
chất lượng học tập của sinh viên trên toàn thế giới. Kết quả là ở Nhật
Bản, sự khác biệt về năng lực và thành tích học tập của sinh viên giữa
các trường là tối thiểu, có lẽ là ít nhất trên thế giới. Hầu hết sinh
viên, học sinh Nhật Bản đều làm chủ chương trình học.
Các chuyên gia giáo dục Nhật bản đã có
nhiều dự án nghiên cứu về tình hình kinh tế – xã hội cũng như văn hoá
lịch sử, lối sông người dân để tìm ra chương trình giáo dục phù hợp nhất
cho mọi cấp. Người Nhật rất “dị ứng” với việc đem hệ thống giáo dục
nước khác áp dụng vào nước mình. Có thể đó cũng là một yếu tố đưa hệ
thống giáo dục Nhật Bản có được nhiều chuẩn mực riêng.
Đến “truyền thống” học tập...
Đến “truyền thống” học tập...
Về
sách giáo khoa, các công ty xuất bản liên hệ với các giáo sư và giảng
viên các trường đại học chuyên về môn học nào đó để chuẩn bị sách giáo
khoa. Những cuốn sách này sẽ trình lên Bộ Giáo dục thông qua. Tiêu chuẩn
thông qua dựa trên các khoá học do Bộ tổ chức. Chỉ có những cuốn sách
nào đáp ứng được tiêu chuẩn mới được đưa vào thử nghiệm sử dụng ở trong
nhà trường. Bộ có một bộ phận chuyên trách tuyển chọn sách giáo khoa cho
từng cấp học, khá nghiêm túc. Nếu thanh tra giáo dục không thông qua
cuốn sách nào đó, thì cuốn sách đó không được phép sử dụng trong nhà
trường. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt khá lớn về thái độ củat người
phương Tây với người Nhật đối với sách giáo khoa. Hầu hết người Nhật
không nghĩ sách giáo khoa chỉ là công cụ, mà chúng còn hàm chứa truyền
thống, nhưng vấn đề là làm thế nào tự thoát ra khỏi những thái độ truyền
thống đối với sách giáo khoa, vì sách giáo khoa mà chỉ mang nội dung
truyền thống sẽ làm cho học sinh sợ khi buộc phải nhớ tất cả những thông
tin đó. Nếu không sửa đổi sẽ không thể cải thiện giáo dục, đặc biệt
những môn học xã hội. Ngày nay, những người biên tập sách giáo khoa đã
có một quan điểm rõ ràng: Chính học sinh, sinh viên là những người sử
dụng thật sự những cuốn sách giáo khoa đó, còn giáo viên chỉ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc học tập của học sinh mà thôi.